‘Ngại’ tham gia bảo hiểm xe máy vì… ít bị phạt
BaoHiemXeMay.net – Hiện nay, cả nước có khoảng 20 triệu xe máy và từ 25/4 áp dụng chế tài phạt 100.000 đồng đối với người điều khiển phương tiện, chủ xe cơ giới đường bộ không có hoặc không mang theo giấy chứng nhận bảo hiểm xe máy. Tuy nhiên, số người tham gia bảo hiểm bắt buộc vẫn rât thấp.
Anh Nguyễn Tiến Ngân (phòng 102, tập thể 52 Đoàn Thị Điểm, Hà Nội) đưa hai giấy chứng nhận bảo hiểm xe máy của gia đình, rồi kể những quyền lợi được hưởng: “Đóng phí 60.500 đồng mỗi năm được bồi thường tối đa về người, tài sản tới 30 triệu đồng mỗi vụ”. Thượng tá Trần Sơn, Phó trưởng Phòng hướng dẫn luật và điều tra, xử lý tai nạn giao thông (C26), khẳng định, sản phẩm bảo hiểm này mang tính nhân đạo cao bởi chủ phương tiện gây tai nạn có hoàn cảnh kinh tế khó khăn sẽ được công ty bảo hiểm đứng ra bồi thường cho nạn nhân.
Ngoài ra, hơn 20 triệu xe gắn máy, mô tô đang lưu hành tại Việt Nam hứa hẹn một thị trường tiềm năng của các doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên, ông Cung Trọng Toàn, Giám đốc Công ty Bảo Minh Hà Nội, than phiền, người dân vẫn ít quan tâm mua sản phẩm bảo hiểm trên. Ông Nguyễn Anh Tuấn, nhân viên Phòng kinh doanh, Công ty CP bảo hiểm Bưu điện, cho biết: “Trong tháng 4, người dân đổ xô đi mua nhưng sau đó thấy cảnh sát giao thông không kiểm tra nên lượng khách lại giảm mạnh”.
Theo phân tích của một số công ty bảo hiểm, sản phẩm này “ế” vì chủ phương tiện chưa nhận thức đầy đủ, công tác tuyên truyền của doanh nghiệp về lợi ích của bảo hiểm cũng chưa tốt, nhưng quan trọng nhất là việc xử phạt chưa thực hiện ráo riết. Thượng tá Trần Sơn giải thích, cảnh sát giao thông chưa xử lý mạnh loại vi phạm này vì không thể biết người nào đang điều khiển xe không có giấy chứng nhận bảo hiểm mà chỉ có thể phát hiện thông qua lỗi ban đầu.
Một số cảnh sát giao thông thừa nhận, họ chỉ thường tập trung phạt những lỗi chính như vượt đèn đỏ, không mang theo bằng lái hoặc đăng ký xe chứ ít phạt lỗi không có bảo hiểm.
Ngại đòi tiền bồi thường
Theo ông Toàn, biện pháp tốt nhất nâng cao nhận thức cho người dân là doanh nghiệp bảo hiểm tăng cường tuyên truyền, còn cảnh sát giao thông đẩy mạnh kiểm tra, xử phạt. Tuy nhiên, ông Toàn thừa nhận, người dân nghĩ rằng thủ tục bồi thường sau tai nạn phiền hà nên nếu có mua cũng chủ yếu là để đối phó.
Nhiều khách hàng cho biết, họ thấy “choáng” khi đọc danh mục giấy tờ phải hoàn tất nếu muốn được bồi thường khi tai nạn xảy ra. Một cán bộ của Công ty CP bảo hiểm Petrolimex thừa nhận, thủ tục còn khá phức tạp. “Nếu tôi phải đền 300.00 – 400.000 đồng khi tai nạn xảy ra thì tự bỏ tiền túi ra chứ thời gian đâu mà hoàn tất đầy đủ các thủ tục trên”, anh Ngân cho biết. Chị T.X, công tác trong một doanh nghiệp viễn thông tại Hà Nội, nói: “Tôi mua bảo hiểm vì bị sếp… ép. “Sếp tổng” phát công văn chỉ đạo các đơn vị thành viên yêu cầu toàn bộ cán bộ công nhân viên phải bỏ tiền túi mua bảo hiểm.
Trưởng Phòng hướng dẫn luật và điều tra, xử lý tai nạn giao thông (C26) Nguyễn Ngọc Tuấn thông cảm với các quy định chặt chẽ của doanh nghiệp bảo hiểm vì nếu đơn giản quá sẽ tạo thuận lợi cho hành vi lập tai nạn giả, thiệt hại giả hòng chiếm đoạt tiền bồi thường. Thượng tá Tuấn đề xuất giải pháp dung hòa quyền lợi hai bên: nếu mức bồi thường từ một triệu đồng trở xuống thì hồ sơ đơn giản hơn mức bồi thường 20 – 30 triệu đồng.
Một đại lý bảo hiểm cho biết, đại lý được hưởng 40 – 45% “hoa hồng” trên mỗi hợp đồng bảo hiểm trị giá 66.000 đồng mỗi năm.n nội dung.
Trịnh Hiếu / Báo Đất Việt online
Thú chơi mũ bảo hiểm… ngàn đô “lên ngôi”
Gần đây, giới trẻ chuyển từ trào lưu “làm đẹp” cho mũ bảo hiểm (vẽ, đính thêm những họa tiết cho mũ…) sang xu hướng săn lùng mũ bảo hiểm độc, không đụng hàng với giá siêu đắt có thể lên tới cả… ngàn đô.
Thậm chí những chiếc mũ bảo hiểm đắt tiền còn cầu kỳ hơn khi được đính với cả… đá quý.
Siêu đắt và… độc nhất vô nhị
Tôi biết Hùng “mô tô” cách đây vài năm khi tìm hiểu về thú chơi xe cổ của dân chơi Hà thành. Tình cờ, tôi gặp lại anh và biết về anh ở một khía cạnh khác. Hùng “mô tô” giờ đắm đuối với thú sưu tầm mũ bảo hiểm. Hễ có ai giới thiệu, anh lại tìm đến xem hàng và đặt mua.
Hùng bảo tôi: “Dân chơi Hà thành giờ “sính” mũ bảo hiểm tính bằng ngàn đô. Ba tiêu chí được lựa chọn là “độc, đắt và đảm bảo tính an toàn”. Hùng nói, đầu tháng 4, anh được người bạn giới thiệu một địa chỉ bán hàng độc dành cho dân chơi xe trên mạng và đã sở hữu một chiếc mũ cao cấp nhập từ Mỹ về với giá 2.000 USD. Hùng khoe: “Tôi đang sở hữu 1 loạt mũ hiệu AGV, Shoei, Ruby, Harley…”.
Hùng “mô tô” vốn là dân chơi thạo xe và cũng thạo nhiều loại mũ bảo hiểm “độc”. Vì thế bộ sưu tập mũ của anh dù chỉ có 5 cái nhưng đều là mũ hiếm tìm ở Hà Nội. Anh bảo rằng: “Không phải ai cũng “chơi” được mũ bảo hiểm. Cái gì cũng phải có đam mê. Để có bộ sưu tập không dụng hàng, người chơi cũng phải học cách nhận biết và điều quan trọng là phải có kinh nghiệm nếu không sẽ trở thành “con gà” cho người bán… vặt lông”.
Hùng cho biết, trong câu lạc bộ motor mà anh tham gia có nhiều thành viên sở hữu những chiếc mũ bảo hiểm độc nhất vô nhị. Mũ bảo hiểm được sưu tầm hợp với loại xe và phong cách chơi xe của từng người. Ví dụ: Vinh thích chơi xe Vespa nên thích sưu tầm mũ bảo hiểm Ruby, hay dòng mũ dành cho dân sành Lambretta… Vinh đang sở hữu chiếc Ruby với mức giá 1.500 USD, được thiết kế lớp vỏ bằng Carbon nên trọng lượng siêu nhẹ, lớp da lót bên trong mũ được thợ thủ công thêu tay hoàn toàn, kết hợp cùng kiểu dáng thon gọn và đường bo viền mũ khỏe khoắn. Lâm- tay chơi xe Harley và xe thể thao lại chuyên sưu tập những chiếc mũ Harley Davidson, mũ AGV Blade, Caberg…
Hùng “mô tô” bật mí, Lâm đang sở hữu chiếc mũ Harley được đính đá quý, những đường chỉ thêu trên mũ được thêu thủ công rất tỉ mỉ và lạ. Hùng bảo rằng, không chỉ dân chơi xe mới dám bỏ tiền ra chơi mũ bảo hiểm “độc, xịn”, mà ngay cả giới trẻ cũng không ngần ngại chi tiền để sở hữu một chiếc mũ bảo hiểm AGV Blade có giá gần 5 triệu đồng, hay mũ hiệu Ruby lên tới 20 triệu đồng.
Quỳnh Chi- một nữ doanh nhân cho biết: “Tôi thích chơi xe Vespa cổ và lùng bằng được những chiếc mũ hợp với nó. Chiếc mũ bảo hiểm Borsalino là chiếc tôi khá ưng ý, giá cũng không quá đắt, chỉ khoảng… 9 triệu đồng. Mũ Borsalino được làm thủ công kết hợp cùng chất liệu vải cao cấp và da thật với phong cách cổ điển, lịch lãm”.
Quỳnh Chi tỏ ra rất biết chơi về nhiều dòng mũ bảo hiểm. Cô cho biết, gần đây, nhiều người chuộng mũ bảo hiểm dành cho những bạn trẻ hiện đại yêu thích dòng xe cổ điển với kiểu dáng trang nhã và lịch sự Lambretta. Đối với người yêu Vespa cổ, những mẫu mũ bảo hiểm được thiết kế chuyên dụng, mang kiểu dáng mềm mại nhưng chắc chắn và đậm phong cách ý dường như là món đồ không thể bỏ qua.
Lambretta cũng không hề kém cạnh khi trên thị trường vừa xuất hiện thêm một bộ sưu tập mũ bảo hiểm mới dành cho dòng Scooter cổ (mũ bảo hiểm St. George, Nero, Bianco, Union Jack, Britalia…). Bộ sưu tập mũ này cũng lên tới 1.200 USD. Quỳnh Chi cười và nói: “Tôi cũng đang sở hữu một chiếc mũ bảo hiểm mà giá trị của nó cũng khá đắt đỏ – 42 triệu đồng. Cũng đã có người ngỏ ý mua lại nhưng tôi không bán. Chiếc mũ này cũng thuộc hàng “độc” nhất Hà Nội”.
“Sành điệu” cần am hiểu thương hiệu(?!)
Nói về phong cách “chơi” mũ bảo hiểm, theo Hùng “mô tô”, giới thượng lưu thường thể hiện đẳng cấp và phong cách riêng qua các sản phẩm tiêu dùng. Từ những bộ ghế sofa, chiếc xe hơi cho đến những vật nhỏ nhắn hơn như: Quần áo, túi xách, giày dép… Nhưng để là một người sành điệu đúng nghĩa trước phải hiểu về những thương hiệu mà mình đang sử dụng.
Mũ bảo hiểm Ruby là một thương hiệu được rất nhiều người ưu chuộng, tất nhiên là không phải ai cũng có thể sở hữu vì giá cả của mỗi chiếc mũ bảo hiểm Ruby không hề rẻ, giá dao động từ 16 triệu đồng trở lên. Hùng tỏ ra am hiểu về dòng mũ Ruby. Anh bảo: “Thương hiệu Ruby được tạo ra bởi nhà thiết kế người Pháp Jerome Coste, mỗi chiếc mũ bảo hiểm Ruby không đơn thuần chỉ có tác dụng bảo vệ, che chắn mà còn là một tác phẩm nghệ thuật. Ruby trở thành một thương hiệu được ưa chuộng trên toàn thế giới thời gian qua. Tất cả mũ bảo hiểm Ruby đều được được sử dụng sợi carbon, một công nghệ thừa hưởng từ ngành hàng không, đảm bảo về độ bền vững tuyệt đối và trọng lượng nhẹ”.
Theo tìm hiểu của PV, mũ bảo hiểm hiệu HJC đang là nhãn hiệu được nhiều bạn trẻ lựa chọn. Phần lớn người mua đều hướng tới tính an toàn của mũ và lựa chọn mũ với giá phải chăng từ 1,1- 1,5 triệu đồng. Tuy nhiên, bên cạnh dòng sản phẩm “xoàng xoàng”, nhiều bạn trẻ chi cả chục triệu đồng để được sở hữu chiếc mũ vừa thời trang lại ít đụng hàng.
Lê Hải (sinh viên năm thứu 4 Đại học Bách Khoa) đang sở hữu chiếc mũ hiệu HJC (mũ R-PHA) phiên bản của tay đua Ben Spies đội Monster Yamaha Tech 3 với giá 8,4 triệu. Hải cho biết: “Tôi thích đội mũ dòng HJC vì vỏ mũ được sản xuất từ nhựa ABS nguyên sinh, chịu được sự va đập mạnh và đâm xuyên cao, đảm bảo sự an toàn tối đa cho người sử dụng. Thân mũ được sơn ba lớp bằng công nghệ sơn hiện đại và rất nhiều tính năng hữu ích khác”.
Đón đầu xu hướng để kiếm bộn tiền
Trên phố Huế (Hai Bà Trưng, Hà Nội) bán rất nhiều loại mũ bảo hiểm thuộc loại cao cấp và đắt tiền như Shoei hay Zeus. Giá dao động từ 1-4 triệu đồng. Cô Lê Ngà, một người bán hàng ở đây cho biết: “Giới trẻ đa phần thường chọn mũ của những thương hiệu sản xuất có tiếng trên thế giới. Ngoài ra, kiểu dáng đẹp, hầm hố, thể thao cũng hấp dẫn những khách hàng trẻ tuổi hơn. Những loại mũ cao cấp, người tiêu dùng chọn kiểu mũ có kích thước lớn, lớp mút và xốp dầy. Giá cả những loại mũ này từ 700 ngàn- 3 triệu đồng. Mũ HJC cũng bán khá chạy giá từ 534 ngàn- 979 ngàn đồng, loại “khủng” nhất có giá tới 8,4 triệu đồng”. Theo quảng cáo của cô Ngà, hiện nay mũ bảo hiểm Ruby được giới trẻ “săn” nhiều nhất.
Trên mạng, nhan nhản những thông tin rao bán mũ bảo hiểm độc dành cho dân chơi. Theo quảng cáo, tôi gọi điện đến số 0988. 240 xxx để đặt hàng. Chủ nhân của số điện thoại quảng cáo: “Mình cung cấp nhiều mẫu mũ bảo hiểm độc chỉ dành cho dân chơi mũọ Ruby được làm từ Carbon, siêu nhẹ; mũ Caberg có thiết kế thoáng khí trên nóc mũ cho người dùng; mũ Andes nhập ngoại… Nếu bạn nào lấy nhận order khi đặt trước 50% số tiền… Ngoài ra, mình còn cung cấp loại hàng cao cấp từ ngày xưa, loại này có 2 loại – loại nhập từ Mỹ về hàng mới 100% đặt trước 50% tiền xong 3 ngày sớm nhất sẽ có hàng. Loại 2 là hàng có sẵn cũng thế nhưng hơi cũ vì từ thời lính ngụy…”.
Trước xu hướng săn lùng mũ bảo hiểm “độc, đắt tiền” của giới trẻ, nhiều cửa hàng kinh doanh mũ bảo hiểm cũng chuyển hướng kinh doanh mũ cao cấp và đó cũng là cơ hội kiếm bộn tiền.
Mua “cốp” mũ bảo hiểm chống trộm
“Thửa” được những chiếc mũ bảo hiểm “độc”, dân chơi cũng không ngần ngại chi tiền “tậu” thêm thiết bị chống trộm mũ. Theo một tay chơi, giá mũ bảo hiểm đắt đỏ khiến cho việc bảo vệ mũ cũng phải cầu kỳ hơn.
Với những dòng xe có cốp to đựng vừa mũ thì không có gì phải lăn tăn, còn những dòng xe không có cốp, nhiều chỗ không nhận trông mũ, chủ nhân của những chiếc mũ ngàn đô phải “thửa” riêng cho mình cốp đựng mũ rời lắp thêm vào xe hoặc thiết kế khoá chống trộm.
Tại các cửa hàng bán mũ bảo hiểm, cốp rời của xe thì đủ các loại kích cỡ, màu sắc. Có hơn 20 kiểu cốp khác nhau, thể tích từ 1 đến 4 mũ. Chạy nhất vẫn là cốp hãng Honda, với giá dao động khoảng 400 – 500 ngàn đồng/chiếc. Nhưng để lắp được cốp, lại phải mua thêm giá đỡ với giá 70- 100 ngàn đồng. Nhiều cửa hàng rao bán “cốp thửa” giá khá đắt đỏ khoảng 1 triệu đồng/chiếc.
Với giới trẻ có thể mũ bảo hiểm không đắt tiền nhưng giữa mũ và trang phục cần tạo dấu ấn.
Chấn thương sọ não do đội mũ bảo hiểm thiếu chất lượng
Theo báo cáo từ Bộ Y Tế Việt Nam, tỷ lệ chấn thương sọ não từ những vụ tai nạn giao thông, mà người đi xe gắn máy có đội mũ bảo hiểm nhưng không đạt chất lượng và tiêu chuẩn an toàn, là gần 16%.
Báo cáo cũng nói đó là do ý thức người sử dụng chưa cao nên cần được cảnh giác nhiều hơn.
Từ giữa năm 2007, Việt Nam ban hành nghị quyết 32 người đi xe gắn máy phải đội mũ bảo hiểm. Khi qui định chính thức có hiệu lực cuối 2007, 98% người đi xe gắn máy có mũ bảo hiểm so với chỉ ba hoặc bốn phần trăm trước đó.
Tính đến cuối 2008, tỷ lệ tử vong vì tai nạn xe cộ giảm hơn 12%, tỷ lệ chấn thương sọ não trong tai nạn giao thông giảm 24%.
Có thể nói mô tô hoặc xe gắn máy vẫn là phương tiện lưu thông phổ biến nhất trong nước. Trong những dịp lễ hội hay Tết nhất, tai nạn giao thông thường tăng vọt bởi tình trạng say rượu lái xe, lái ẩu, bị xe khác tông phải, đua xe trên đường vân vân…
Số liệu của Bộ Y Tế cho thấy cứ trong một trăm vụ tai nạn xe cộ thì gần mười sáu vụ bị chấn thương sọ não do người chạy xe đội mũ bảo hiểm không đạt tiêu chuẩn chất lượng và an toàn.
Ham rẻ
Theo nhận định của các cơ quan chức năng Việt Nam, việc sử dụng mũ bảo hiểm không an toàn phát sinh từ ý thức chưa cao, chuộng giá rẻ mà không đặt nặng vấn đề an toàn như một điều kiện cần thiết.
Không chỉ Bộ Y Tế , các cơ quan chức năng khác như Bộ Khoa Học Công Nghệ hay Tổng Cục Đo Lường Chất Lượng Việt Nam, cũng nhiều lần khuyến cáo chuyện những loại mũ bảo hiểm kém chất lượng bày bán ở nhiều nơi trong thành phố.
Cô Hoàng Thị Na Hương, phó giám đốc điều hành Quĩ Phòng Chống Thương Vong Châu Á, một tổ chức phi chính phủ từ nước ngoài, chuyên hỗ trợ và vận động tích cực việc người người đội mũ bảo hiểm khi chạy xe gắn máy, cũng là phó tổng giám đốc công ty sản xuất mũ bảo hiểm Protec ở Hà Nội, cho biết:
“Trên những vỉa hè lòng đường ở các thành phố người ta vẫn bán những loại mũ bảo hiểm chỉ có giá ba mươi nghìn. Với giá như thế thì chắc chắn là chất lượng không đạt yêu cầu rồi.
Qui chuẩn QCVN 2:2008, do Bộ Khoa Học Và Công Nghệ ban hành, đưa ra những tiêu chuẩn cho nhà sản xuất, qui định với mũ một phần hai thì yêu cầu về độ va đập, độ đâm xuyên cũng như quai đeo của mũ, độ ổn định của mũ, đều rất là rõ ràng.
Trên những vỉa hè lòng đường ở các thành phố người ta vẫn bán những loại mũ bảo hiểm chỉ có giá ba mươi nghìn. Với giá như thế thì chắc chắn là chất lượng không đạt yêu cầu rồi.
Cô Hoàng Thị Na Hương
Tuy nhiên trong quá trình sản xuất thì đã có những đơn vị sản xuất không chú trọng. Trong công tác thử mũ thì hệ thống máy móc ở tại bên mình cũng chưa phổ biến để bất kỳ lúc nào nhà sản xuất muốn thử nghiệm chất lượng thì đều thử được. Thế thì vấn đề tất nhiên là trách nhiệm của những nhà sản xuất, trách nhiệm của cơ quan chức năng, nhưng mà chính những người tiêu dùng đã tiếp tay cho những sản phẩm này được bầy bán trên thị trường.”
Vẫn theo lời cô Na Hương, nếu người tiêu dùng đọc kỹ những khuyến cáo từ chính phủ, từ các phương tiện thông tin báo chí, đọc kỹ những hướng dẫn của những thương hiệu mũ bảo hiểm đã đạt tiêu chuẩn tại Việt Nam thì họ sẽ không bao giờ đồng ý mua những nón bảo hiểm với giá ba mươi nghìn đồng mà hoàn toàn không đạt chất lượng.
Thực ra không phải người trong nước thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về tầm quan trọng và độ an toàn cần thiết của mũ bảo hiểm cho mình và cho con cái, song thực tế cũng không thiếu những người đội mũ an toàn chỉ với mục đích đối phó với cảnh sát giao thông hơn là bảo vệ tính mạng của mình và của con em mình.
Thực tế cũng cho thấy vì không tin tưởng nơi chất lượng của những nón bảo hiểm bán trên hè phố, nhiều người khi đi du lịch qua Thái Lan hay Singapore chẳng hạn, đã mua về những chiếc mũ bảo hiểm trông thật kiên cố, trong lúc ở nhà cũng có những công ty sản xuất có chất lượng và độ an toàn cao.
Cách kiểm tra mũ bảo hiểm đạt chuẩn
Vẫn cô Na Hương, phó tổng giám đốc công ty sản xuất mũ bảo hiểm Protec, nói rằng sản phẩm đạt chuẩn phải có tem CR của Tổng Cục Đo Lường Chất Lượng Việt Nam.
“Trên mũ phải ghi rõ nguồn gốc xuất xứ của nhà sản xuất, để những gì người tiêu dùng thắc mắc thì có thể liên hệ.
Lớp EPS ở phía trong là thành phần quan trọng nhất của chiếc mũ bảo hiểm, giúp hấp thụ lực xung động khi xảy ra sự va đập.
Cô Hoàng Thị Na Hương
Ngoài ra, liên quan đến nguyên vật liệu của mũ thì khách hàng cần kiểm tra lớp EPS ở phía trong. Lớp EPS ở phía trong là thành phần quan trọng nhất của chiếc mũ bảo hiểm, giúp hấp thụ lực xung động khi xảy ra sự va đập. Người tiêu dùng phải kiểm tra lớp xốp có độ bóng mịn và chắc, đảm bảo độ ghì chặt an toàn.
Còn khóa mũ và bề ngoài của mũ thì có thể nhìn và đánh giá chứ không nhất thiết phải thử nghiệm. Tuy nhiên để có cảm giác thoải mái thì dây quai mũ phải có bộ phận điều chỉnh được cho phù hợp với khuôn mặt cũng như cái dạng đầu của mình chứ không phải mua như thế nào thì đội như thế ấy luôn. Qui chuẩn QCVN2: 2008 cũng đã có qui định về phép thử rất rõ ràng để đảm bảo cái khóa mũ đấy đạt chuẩn.”
Sau ba năm luật về người chạy xe gắn máy phải có mũ bảo hiểm được ban hành thì số lượng thiếu nhi đội mũ bảo hiểm xem ra còn thấp. Theo kết quả thăm dò mới rồi của Quĩ Phòng Chống Thương Vong Châu Á, trung bình 30% trẻ em thành phố từ sáu đến mười bốn tuổi có đội mũ bảo hiểm khi được chở trên xe gắn máy. Tại thôn quê thì trung bình chỉ 18% mà thôi.
Những số liệu về tử vong hay thương vong do tai nạn xe cộ, đặc biệt bị chấn thương sọ não do chạy xe gắn máy không đội mũ bảo hiểm hoặc có đội nhưng nón không đúng tiêu chuẩn, vẫn được cập nhật thường xuyên. Tại Việt Nam, cơ quan được chỉ định để thu thập những số liệu này là Bộ Công An phối hợp cùng Ủy Ban An Toàn Giao Thông Quốc Gia.
Tưởng cần biết 70% các vụ tai nạn giao thông ở Việt Nam đến từ người chạy xe mô tô hay xe máy, 88,14% thiệt mạng do chấn thương sọ não.
Mỗi năm bệnh viện Chợ Rẫy ở thành phố Hồ Chí Minh nhận ba chục ngàn ca chấn thương sọ não trong tai nạn xe. Trung bình mỗi năm từ một ngàn tư đến một ngàn sáu trăm người chết tại bệnh viện do bị xe tông gây thương tích ở đầu.
Thanh Trúc, phóng viên RFA
Để mũ bảo hiểm thật sự phát huy tác dụng
BaoHiemXeMay.Net – Mũ bảo hiểm cho người đi xe máy nói chung cần đạt được yêu cầu. Nếu xảy ra tai nạn giao thông, chiếc mũ có tác dụng bảo vệ phần đầu của nạn nhân, giảm nguy cơ bị chấn thương sọ não…
Như chúng ta đã biết, cơ quan chức năng đã hơn 1 lần ban hành Tiêu chuẩn chất lượng kỹ thuật an toàn mũ bảo hiểm, kể cả loại có hàm và loại không có hàm cho người đi môtô (dung tích xilanh trên 50 cm3, biển kiểm soát có 1 chữ cái); xe gắn máy (dung tích xi-lanh dưới 50 cm3, biển kiểm soát có 2 chữ cái, học sinh đủ 16 tuổi trở lên được phép điều khiển). Thí dụ Tiêu chuẩn mũ bảo hiểm TCVN 5756-1993 (ban hành năm 1993) và Tiêu chuẩn TCVN 5756: 2001 (ban hành năm 2001)…
Tuy nhiên, qua thực tế cấp cứu rất nhiều bệnh nhân bị tai nạn giao thông, các bác sỹ bệnh viện Việt-Đức (Hà Nội) khuyến cáo: mũ bảo hiểm loại có hàm mới phát huy được tác dụng bảo vệ người đi mô-tô, xe gắn máy trên đường quốc lộ.
Một sơ hở thứ hai cần nói tới là chế tài xử lý người đi môtô, xe gắn máy vi phạm Luật Giao thông hiện hành, không có quy định cụ thể đội mũ bảo hiểm phải đạt Tiêu chuẩn chất lượng (TCVN) nào? Cấu tạo mũ (phần vỏ cứng, phần đệm hấp thu xung động bên trong thân mũ, phần kính chắn gió)… ra sao? Khiến CSGT đinh ninh rằng chất lượng mũ bảo hiểm thuộc trách nhiệm nhà sản xuất, người buôn bán và cơ quan quản lý thị trường, cơ quan ban hành Tiêu chuẩn mũ.
Nguyễn Thành Lập
LTS Dân trí-Từ chỗ mọi người đi các loại xe máy nói chung đều không đội mũ bảo hiểm, cho đến nay hầu như mọi người đi xe máy đã có thói quen đội mũ bảo hiểm. Đó là bước tiến đáng ghi nhận. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều loại mũ bảo hiểm chưa bảo đảm an toàn, mặt khác cũng chưa có chế tài xử phạt người đội mũ bảo hiểm không đúng quy chuẩn như bài viết trên đây đã phản ánh.
Vì vậy, rất cần bổ sung những quy định có tính bắt buộc đối với các cơ sở sản xuất và bán mũ bảo hiểm phải đúng quy chuẩn an toàn, cũng như quy định trách nhiệm của cảnh sát giao thông có quyền phạt những người đội mũ bảo hiểm không đúng quy chuẩn.
Bảo hiểm xe cơ giới: Hiểu rõ để an tâm
Theo Nghị định 103/2008/NĐ-CP của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, người điều khiển xe không có giấy chứng nhận bảo hiểm sẽ bị xử phạt từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng
Ngày 25-2, liên bộ Tài chính- Công an đã ban hành thông tư hướng dẫn việc thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự (TNDS) của chủ xe cơ giới.
Đây là bảo hiểm bắt buộc
Nếu chỉ lưu thông bình thường trên đường mà không có những bất trắc xảy ra thì sẽ không ai nghĩ đi mua bảo hiểm làm gì. Nhưng khi không may xảy ra tai nạn giao thông, chủ xe phải có trách nhiện bồi thường cho người bị tai nạn do xe gây ra cả về tính mạng, tài sản và bồi thường cho cả hành khách ngồi trên xe (nếu có thiệt hại), lúc ấy mọi người mới thấy hết cái lợi của việc mua bảo hiểm. Trong trường hợp này, nếu chủ xe không mua bảo hiểm TNDS thì bản thân họ phải tự lo kinh phí để chi trả cho các khoản này và một khi không chi trả được do năng lực tài chính không có đủ sẽ gây khó khăn cho cả người bị thiệt hại và chủ xe. Chính vì những lý do như trên, chủ phương tiện xe cơ giới các loại bắt buộc phải mua bảo hiểm TNDS. Khi có tai nạn xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trực tiếp đứng ra lo tất cả các khoản bồi thường.
Để tạo điều kiện cho mọi công dân có thể mua bảo hiểm được dễ dàng, tại 27 công ty bảo hiểm phi nhân thọ đang hoạt động trên toàn lãnh thổ VN, hoặc tại các mạng lưới, phòng giao dịch, địa điểm bán bảo hiểm do các công ty này tổ chức ở khắp mọi nơi, thậm chí ở ngay các cửa hàng xăng dầu, những nơi đăng ký xe… đều có tổ chức bán bảo hiểm xe cơ giới với nhiều hình thức khuyến mãi. Về hình thức mua bảo hiểm, nếu chủ xe đã tham gia bảo hiểm bắt buộc theo quy định trước đây (Nghị định 115/1997 và Quyết định 23/2007) thì nay phải mua bảo hiểm bắt buộc theo quy định mới khi giấy chứng nhận cũ hết hiệu lực. Nếu chủ xe chỉ mới tham gia hợp đồng bảo hiểm tự nguyện TNDS, bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe, bảo hiểm vật chất xe… thì phải tham gia thêm bảo hiểm bắt buộc TNDS.
Quy định chi tiết về trách nhiệm các bên
Mua bảo hiểm thì dễ nhưng khi có sự cố xảy ra thì thủ tục làm hồ sơ bồi thường khá rắc rối. Chính vì vậy, hầu hết chủ xe cơ giới đều ngán ngại khi vấp phải hàng loạt các đòi hỏi về thủ tục của doanh nghiệp bảo hiểm, làm mất đi lòng tin của người tham gia bảo hiểm. Trong trường hợp này, thông tư liên bộ cũng đã quy định chi tiết. Theo đó, khi có tai nạn xảy ra, chủ xe phải cung cấp các loại tài liệu liên quan đến vụ tại nạn như giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực ,bản sao giấy đăng ký xe, giấy phép lái xe, giấy, CMND hoặc hộ chiếu cho cơ quan công an. Sau khi đã có những giấy tờ này, cơ quan công an phải có trách nhiệm thu thập, hoàn chỉnh hồ sơ liên quan đến vụ tai nạn cho doanh nghiệp bảo hiểm để hình thành hồ sơ bồi thường bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm căn cứ vào những chứng cứ đã có để bồi thường. Trong trường hợp tai nạn nhỏ, CSGT không có mặt ở hiện trường nên không có biên bản của công an thì doanh nghiệp bảo hiểm có thể căn cứ vào khai báo của chủ xe, xác nhận của chính quyền địa phương nơi xảy ra tai nạn, hoặc thông qua công tác giám định nghiệp vụ của doanh nghiệp bảo hiểm để căn cứ lập hồ sơ bồi thường.
Khi tai nạn xảy ra, trong phạm vi mức trách nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải bồi thường cho chủ xe số tiền mà chủ xe đã bồi thường hoặc sẽ phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Trường hợp chủ xe chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường trực tiếp cho người bị thiệt hại. Trường hợp cần thiết, doanh nghiệp bảo hiểm phải tạm ứng ngay những chi phí cần thiết và hợp lý trong phạm vi trách nhiệm bảo hiểm nhằm khắc phục hậu quả tai nạn.
Mức phí có thời hạn bảo hiểm 1 năm
– Ô tô dưới 6 chỗ ngồi dùng cho cá nhân 345.000 đồng
– Ô tô từ 6 đến 11 chỗ ngồi 690.000 đồng
– Ô tô từ 12 đến 24 chỗ ngồi 1.104.000 đồng
– Ô tô trên 24 chỗ ngồi 1.587.000 đồng
– Xe máy dưới 50 phân khối 50.000 đồng
– Xe máy trên 50 phân khối 60.000 đồng
Mức bồi thường khi xảy ra tai nạn: Trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về người do xe cơ giới gây ra cao nhất là 50 triệu đồng cho một người cho một vụ tai nạn. Mức bồi thường đối với thiệt hại về tài sản do môtô hai bánh, mô tô 3 bánh, xe gắn máy và các loại xe cơ giới tương tự gây ra là 30 triệu đồng cho mỗi vụ tai nạn.
Bảo hiểm xe cơ giới
Bao gồm các loại hình:
- Bảo hiểm bắt buộc TNDS của Chủ xe cơ giới (bao gồm bảo hiểm TNDS của Chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và đối với hành khách trên xe).
- Bảo hiểm tự nguyện TNDS của Chủ xe cơ giới (bao gồm bảo hiểm TNDS của Chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và đối với hành khách trên xe).
- Bảo hiểm TNDS của Chủ xe cơ giới đối với hàng hoá trên xe.
- Bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe và lái, phụ xe.
- Bảo hiểm vật chất xe.
Áp dụng cho xe ô tô, xe máy chuyên dùng bao gồm: Xe ôtô; máy kéo; Xe Rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc, được kéo bởi xe ôtô, máy kéo; xe máy thi công; xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác có tham gia giao thông đường bộ
Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 của chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Nghị định này quy định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; quyền và nghĩa vụ của chủ xe cơ giới, doanh nghiệp bảo hiểm; trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Chủ xe cơ giới tham gia giao thông trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Doanh nghiệp bảo hiểm được phép triển khai bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Nghị định này thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế đó.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
1. “Doanh nghiệp bảo hiểm” là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động kinh doanh bảo hiểm hợp pháp tại Việt Nam và được phép triển khai bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
2. “Chủ xe cơ giới” (tổ chức, cá nhân) là chủ sở hữu xe cơ giới hoặc được chủ sở hữu xe cơ giới giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp, điều khiển xe cơ giới.
3. “Xe cơ giới” bao gồm xe ô tô, máy kéo, xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng (kể cả rơ-moóc và sơ mi rơ-moóc được kéo bởi xe ô tô hoặc máy kéo), xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe cơ giới tương tự (kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật) có tham gia giao thông.
4. “Hành khách” là người được chở trên xe theo hợp đồng vận chuyển hành khách thuộc các hình thức quy định trong Bộ luật Dân sự.
5. “Bên thứ ba” là người bị thiệt hại về thân thể, tính mạng, tài sản do xe cơ giới gây ra, trừ những người sau:
a) Lái xe, phụ xe trên chính chiếc xe đó;
b) Người trên xe và hành khách trên chính chiếc xe đó;
c) Chủ sở hữu xe trừ trường hợp chủ sở hữu đã giao cho tổ chức, cá nhân khác chiếm hữu, sử dụng chiếc xe đó.
6. “Ngày” (thời hạn) quy định trong Nghị định này là ngày làm việc.
Điều 4. Quỹ bảo hiểm xe cơ giới
1. Quỹ bảo hiểm xe cơ giới do các doanh nghiệp bảo hiểm đóng để sử dụng cho các mục đích sau:
a) Công tác đề phòng hạn chế tổn thất, tai nạn giao thông đường bộ;
b) Tổ chức tuyên truyền, giáo dục về an toàn giao thông đường bộ và chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới;
c) Hỗ trợ nhân đạo cho những thiệt hại xảy ra đối với người thứ ba và hành khách chuyên chở trên xe do xe cơ giới gây ra trong những trường hợp không xác định được xe gây tai nạn hoặc xe không tham gia bảo hiểm;
d) Hỗ trợ chi phí mai táng trong các trường hợp loại trừ bảo hiểm quy định tại Điều 13 Nghị định này;
đ) Hỗ trợ khen thưởng thành tích cho lực lượng công an trong công tác kiểm soát phát hiện và xử lý vi phạm hành chính các chủ xe cơ giới trong việc thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới;
e) Hỗ trợ xây dựng cơ sở dữ liệu về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới;
g) Hỗ trợ các mục đích khác để phối hợp, chỉ đạo thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
2. Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm trích tối thiểu 2% doanh thu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới hàng năm để đóng vào Quỹ bảo hiểm xe cơ giới.
Điều 5. Cơ sở dữ liệu về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
1. Cơ sở dữ liệu được xây dựng nhằm thống kê, cập nhật và hệ thống hoá toàn bộ thông tin liên quan đến xe cơ giới và chủ xe cơ giới tham gia giao thông và tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; phục vụ cho công tác quản lý nhà nước, hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm và sự giám sát của nhân dân.
2. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Chương II
BẢO HIỂM BẮT BUỘC TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI
Điều 6. Nguyên tắc tham gia bảo hiểm
1. Chủ xe cơ giới phải tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định tại Nghị định này và Quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ Tài chính quy định.
2. Chủ xe cơ giới không được đồng thời tham gia hai hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự trở lên cho cùng một xe cơ giới.
3. Ngoài việc tham gia hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự, chủ xe cơ giới có thể thoả thuận với doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia hợp đồng bảo hiểm tự nguyện.
4. Doanh nghiệp bảo hiểm được quyền chủ động bán bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới dưới các hình thức sau:
a) Trực tiếp;
b) Thông qua đại lý bảo hiểm, môi giới bảo hiểm;
c) Thông qua đấu thầu;
d) Các hình thức khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Trường hợp bán bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thông qua đại lý bảo hiểm thì đại lý bảo hiểm phải đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định tại Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành, các quy định khác của pháp luật liên quan.
Doanh nghiệp bảo hiểm không được sử dụng đại lý bán bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới của doanh nghiệp bảo hiểm khác trừ trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm đó chấp thuận bằng văn bản.
Điều 7. Phạm vi bồi thường thiệt hại
1. Thiệt hại về thân thể, tính mạng và tài sản đối với bên thứ ba do xe cơ giới gây ra.
2. Thiệt hại về thân thể và tính mạng của hành khách theo hợp đồng vận chuyển hành khách do xe cơ giới gây ra.
Điều 8. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
1. Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (sau đây gọi là Giấy chứng nhận bảo hiểm) là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự giữa chủ xe cơ giới với doanh nghiệp bảo hiểm.
2. Khi mua bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ xe cơ giới được doanh nghiệp bảo hiểm cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm cho chủ xe cơ giới khi chủ xe cơ giới đã đóng đủ phí bảo hiểm. Những trường hợp đặc thù do Bộ Tài chính quy định.
3. Bộ Tài chính quy định cụ thể về mẫu Giấy chứng nhận bảo hiểm để áp dụng và quản lý thống nhất trong phạm vi cả nước.
Điều 9. Phí bảo hiểm và mức trách nhiệm bảo hiểm
1. Phí bảo hiểm là khoản tiền mà chủ xe cơ giới phải đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm khi mua bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
2. Mức trách nhiệm bảo hiểm là số tiền tối đa doanh nghiệp bảo hiểm có thể phải trả đối với thiệt hại về thân thể, tính mạng và tài sản của bên thứ ba và hành khách do xe cơ giới gây ra trong mỗi vụ tai nạn xảy ra thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
3. Bộ Tài chính quy định mức phí và mức trách nhiệm bảo hiểm.
Điều 10. Thời hạn và hiệu lực bảo hiểm
1. Thời hạn ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm là một năm, trong các trường hợp sau, thời hạn bảo hiểm có thể dưới 01 năm:
a) Xe cơ giới nước ngoài tạm nhập tái xuất có thời hạn tham gia giao thông trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới 01 năm;
b) Niên hạn sử dụng của xe cơ giới nhỏ hơn một năm theo quy định của pháp luật.
2. Hiệu lực bảo hiểm bắt đầu và kết thúc theo thời hạn ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm.
3. Trong thời hạn còn hiệu lực ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm, nếu có sự chuyển quyền sở hữu xe cơ giới thì mọi quyền lợi bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cũ vẫn còn hiệu lực đối với chủ xe cơ giới mới.
Điều 11. Hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm
1. Hợp đồng bảo hiểm chỉ được hủy bỏ trong những trường hợp sau:
a) Xe cơ giới bị thu hồi đăng ký và biển số theo quy định của pháp luật;
b) Xe cơ giới hết niên hạn sử dụng theo quy định của pháp luật;
c) Xe cơ giới bị mất được cơ quan công an xác nhận;
d) Xe cơ giới hỏng không sử dụng được hoặc bị phá huỷ do tai nạn giao thông được cơ quan công an xác nhận; xe tạm nhập, tái xuất.
2. Chủ xe cơ giới muốn huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm kèm theo Giấy chứng nhận bảo hiểm muốn huỷ bỏ và các bằng chứng về việc xe cơ giới thuộc đối tượng được hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại khoản 1 Điều này.
Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt từ thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm nhận được thông báo huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm.
3. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho chủ xe cơ giới 70% phần phí bảo hiểm của thời gian hủy bỏ. Doanh nghiệp bảo hiểm không phải hoàn phí bảo hiểm trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực, nhưng chủ xe cơ giới yêu cầu hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm đã xảy ra sự kiện bảo hiểm và phát sinh trách nhiệm bồi thường bảo hiểm.
4. Trường hợp chủ xe cơ giới không có thông báo về việc huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm, nhưng doanh nghiệp bảo hiểm có những bằng chứng cụ thể về việc xe cơ giới thuộc đối tượng được hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại khoản 1 Điều này, thì doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo cho chủ xe cơ giới để thực hiện các thủ tục huỷ bỏ hợp đồng. Sau 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo mà chủ xe cơ giới không thực hiện các thủ tục huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm mặc nhiên được huỷ bỏ.
Điều 12. Giám định thiệt hại
1. Khi xảy ra tai nạn, doanh nghiệp bảo hiểm hoặc người được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền phải phối hợp chặt chẽ với chủ xe cơ giới, bên thứ ba hoặc người đại diện hợp pháp của các bên liên quan thực hiện việc giám định tổn thất để xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất. Kết quả giám định phải lập thành văn bản có chữ ký của các bên liên quan. Doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm về chi phí giám định.
2. Trường hợp chủ xe cơ giới không thống nhất về nguyên nhân và mức độ thiệt hại do doanh nghiệp bảo hiểm xác định, hai bên thoả thuận chọn cơ quan giám định độc lập thực hiện việc giám định. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được việc trưng cầu giám định độc lập thì một trong các bên được yêu cầu Toà án nơi xảy ra tổn thất hoặc nơi cư trú của chủ xe cơ giới chỉ định giám định độc lập. Kết luận bằng văn bản của giám định độc lập có giá trị bắt buộc đối với các bên.
3. Trường hợp kết luận của giám định độc lập khác với kết luận giám định của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả chi phí giám định độc lập. Trường hợp kết luận của giám định độc lập trùng với kết luận giám định của doanh nghiệp bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải trả chi phí giám định độc lập.
4. Trong trường hợp đặc biệt không thể thực hiện được việc giám định, thì doanh nghiệp bảo hiểm được căn cứ vào các biên bản, kết luận của các cơ quan chức năng có thẩm quyền và các tài liệu liên quan để xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại.
Điều 13. Loại trừ bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm không bồi thường thiệt hại đối với các trường hợp sau:
1. Hành động cố ý gây thiệt hại của chủ xe, lái xe, hoặc của người bị thiệt hại.
2. Lái xe gây tai nạn cố ý bỏ chạy không thực hiện trách nhiệm dân sự của chủ xe, lái xe cơ giới.
3. Lái xe không có Giấy phép lái xe hoặc Giấy phép lái xe không phù hợp đối với loại xe cơ giới bắt buộc phải có Giấy phép lái xe.
4. Thiệt hại gây ra hậu quả gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, thiệt hại gắn liền với việc sử dụng và khai thác tài sản bị thiệt hại.
5. Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp hoặc bị cướp trong tai nạn.
6. Chiến tranh, khủng bố, động đất.
7. Thiệt hại đối với tài sản đặc biệt bao gồm: vàng, bạc, đá quý, tiền, các loại giấy tờ có giá trị như tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt.
Điều 14. Nguyên tắc bồi thường
1. Khi tai nạn xảy ra, trong phạm vi mức trách nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho chủ xe cơ giới số tiền mà chủ xe cơ giới đã bồi thường hoặc sẽ phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Trường hợp chủ xe cơ giới chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn, doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường trực tiếp cho người bị thiệt hại.
2. Trường hợp cần thiết, doanh nghiệp bảo hiểm phải tạm ứng ngay những chi phí cần thiết và hợp lý trong phạm vi trách nhiệm bảo hiểm nhằm khắc phục hậu quả tai nạn.
3. Mức bồi thường bảo hiểm:
a) Mức bồi thường bảo hiểm về người: được xác định dựa trên Bảng quy định trả tiền bồi thường thiệt hại về người theo quy định của Bộ Tài chính;
b) Mức bồi thường thiệt hại về tài sản: được xác định theo thiệt hại thực tế và theo mức độ lỗi của chủ xe cơ giới.
4. Doanh nghiệp bảo hiểm không có trách nhiệm bồi thường phần vượt quá mức trách nhiệm bảo hiểm theo quy định của Bộ Tài chính.
5. Trường hợp chủ xe cơ giới đồng thời tham gia nhiều hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự cho cùng một xe cơ giới thì số tiền bồi thường chỉ được tính theo hợp đồng bảo hiểm đầu tiên.
Điều 15. Hồ sơ bồi thường
1. Hồ sơ bồi thường do doanh nghiệp bảo hiểm lập bao gồm các tài liệu sau:
a) Tài liệu liên quan đến xe, lái xe;
b) Các giấy tờ chứng minh thiệt hại về người và tài sản;
c) Tài liệu liên quan của cơ quan có thẩm quyền về vụ tai nạn.
2. Doanh nghiệp bảo hiểm, chủ xe cơ giới có trách nhiệm thu thập, cung cấp các tài liệu liên quan trong hồ sơ bồi thường.
3. Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể hồ sơ bồi thường.
Điều 16. Thời hạn yêu cầu, thanh toán và khiếu nại bồi thường
1. Thời hạn yêu cầu bồi thường của chủ xe cơ giới là 01 năm kể từ ngày xảy ra tai nạn, trừ trường hợp chậm trễ do nguyên nhân khách quan và bất khả kháng theo quy định của pháp luật.
2. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn (trừ trường hợp bất khả kháng), chủ xe cơ giới phải gửi thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm kèm theo các tài liệu quy định trong hồ sơ yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm của chủ xe cơ giới.
3. Thời hạn thanh toán bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm là mười lăm ngày kể từ khi nhận được hồ sơ bồi thường thuộc trách nhiệm của chủ xe cơ giới và không quá 30 ngày trong trường hợp phải tiến hành xác minh hồ sơ.
4. Trường hợp từ chối bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo bằng văn bản cho chủ xe cơ giới biết lý do từ chối bồi thường trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ yêu cầu bồi thường bảo hiểm.
5. Thời hiệu khởi kiện về việc bồi thường bảo hiểm là 03 năm kể từ ngày doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán bồi thường hoặc từ chối bồi thường. Quá thời hạn trên quyền khởi kiện không còn giá trị.
Điều 17. Quyền của chủ xe cơ giới
1. Được lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
2. Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích, cung cấp các thông tin liên quan đến việc giao kết, thực hiện và huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm.
3. Trường hợp có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm, có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giảm mức phí bảo hiểm phù hợp cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm.
4. Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường nhanh chóng, đầy đủ và kịp thời theo hợp đồng bảo hiểm.
5. Chủ xe cơ giới là đơn vị sản xuất kinh doanh, phí bảo hiểm được tính vào chi phí hoạt động kinh doanh; chủ xe cơ giới là cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, phí bảo hiểm được bố trí trong kinh phí hoạt động thường xuyên của cơ quan, đơn vị.
6. Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Điều 18. Nghĩa vụ của chủ xe cơ giới
1. Phải tham gia và đóng đầy đủ phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định tại Nghị định này. Khi mua bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải cung cấp đầy đủ và trung thực những nội dung đã được quy định trong Giấy chứng nhận bảo hiểm.
2. Tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp bảo hiểm xem xét tình trạng xe trước khi cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm.
3. Trường hợp có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải kịp thời thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm để áp dụng mức phí bảo hiểm phù hợp cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm.
4. Chủ xe cơ giới phải luôn mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực khi tham gia giao thông, xuất trình giấy tờ này khi có yêu cầu của lực lượng cảnh sát giao thông và cơ quan chức năng có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
5. Tuân thủ các quy định về đảm bảo an toàn giao thông đường bộ.
6. Khi tai nạn giao thông xảy ra, chủ xe cơ giới phải có trách nhiệm:
a) Thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm để phối hợp giải quyết, tích cực cứu chữa, hạn chế thiệt hại về người và tài sản, bảo vệ hiện trường tai nạn; đồng thời thông báo cho cơ quan Công an hoặc chính quyền địa phương nơi gần nhất;
b) Không được di chuyển, tháo gỡ hoặc sửa chữa tài sản khi chưa có ý kiến chấp thuận của doanh nghiệp bảo hiểm; trừ trường hợp cần thiết để đảm bảo an toàn, đề phòng hạn chế thiệt hại về người và tài sản hoặc phải thi hành theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền;
c) Chủ xe cơ giới phải cung cấp các tài liệu trong hồ sơ yêu cầu bồi thường và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình xác minh các tài liệu đó.
7. Chủ xe cơ giới phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm trong trường hợp xe cơ giới thuộc đối tượng được hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Nghị định này.
8. Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
Điều 19. Quyền của doanh nghiệp bảo hiểm
1. Thu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định của Bộ Tài chính.Trường hợp có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm, có quyền yêu cầu chủ xe cơ giới nộp thêm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm.
2. Yêu cầu chủ xe cơ giới cung cấp đầy đủ và trung thực những nội dung đã được quy định trong Giấy chứng nhận bảo hiểm; xem xét tình trạng xe cơ giới trước khi cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm.
3. Đề nghị cơ quan Công an cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến vụ tai nạn theo quy định tại khoản 3 Điều 22 Nghị định này.
4. Từ chối giải quyết bồi thường đối với những trường hợp không thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
5. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới phù hợp với thực tế triển khai loại hình bảo hiểm này.
6. Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Điều 20. Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm
1. Phải bán bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo đúng Quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm theo quy định của Bộ Tài chính. Trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm nhận được thông báo của chủ xe cơ giới về sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số tiền chênh lệch cho chủ xe cơ giới.
2. Cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm và giải thích rõ Quy tắc, điều khoản và biểu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cho chủ xe cơ giới.
3. Phải sử dụng mẫu Giấy chứng nhận bảo hiểm theo quy định của Bộ Tài chính để cấp cho chủ xe cơ giới.
4. Không được chi hỗ trợ đại lý bán bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới dưới mọi hình thức ngoài mức hoa hồng bảo hiểm đại lý được hưởng theo quy định của Bộ Tài chính.
5. Không được khuyến mại dưới mọi hình thức đối với bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
6. Thanh toán cho cơ quan Công an chi phí sao chụp những hồ sơ, biên bản tai nạn đã được cung cấp và có trách nhiệm giữ gìn bí mật trong quá trình điều tra.
7. Chi trả bồi thường nhanh chóng và chính xác theo quy định của Nghị định này.
8. Trong vòng 15 ngày trước khi hết thời hạn bảo hiểm phải thông báo cho chủ xe cơ giới về việc hết thời hạn của hợp đồng bảo hiểm.
9. Trích tối thiểu 2% doanh thu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới hàng năm đóng vào Quỹ bảo hiểm xe cơ giới. Mức đóng góp hàng năm theo quy định của Bộ Tài chính.
10. Phải hạch toán tách biệt doanh thu phí bảo hiểm, hoa hồng, bồi thường và các khoản chi phí khác liên quan đến bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
11. Xây dựng và vận hành hệ thống công nghệ thông tin đảm bảo việc thống kê và cập nhật tình hình triển khai bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đảm bảo kết nối vào cơ sở dữ liệu về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
12. Báo cáo Bộ Tài chính về tình hình thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo định kỳ hoặc khi có yêu cầu.
13. Chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
14. Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
Nghị định 103/2008/NĐ-CP của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới
Thứ ba, 25 Tháng 1 2011 16:58
Tên văn bản: | Nghị định 103/2008/NĐ-CP của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới |
Cơ quan ban hành: | Chính phủ |
Ngày ban hành: | 16/09/2008 |
Ngày đăng công báo: | 01/10/2008 |
Ngày hiệu lực: | 16/10/2008 |
Ngày hết hiệu lực: | |
Loại văn bản: | Nghị định |
Số hiệu: | 103/2008/NĐ-CP |
Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Hiệu lực văn bản: | Còn Hiệu lực |
Tóm tắt:
Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới – Theo Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ban hành ngày 16/9/2008, Chính phủ quy định: chủ xe cơ giới phải tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự (TNDS) theo quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm do Bộ Tài chính quy định. Chủ xe cơ giới không được đồng thời tham gia 2 hợp đồng bảo hiểm bắt buộc TNDS trở lên cho cùng 1 xe cơ giới….
Khi tai nạn xảy ra, trong phạm vi mức trách nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho chủ xe cơ giới số tiền mà chủ xe cơ giới đã bồi thường hoặc sẽ phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Thời hạn yêu cầu bồi thường của chủ xe cơ giới là 1 năm kể từ ngày xảy ra tai nạn trừ trường hợp chậm trễ do nguyên nhân khách quan và bất khả kháng theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn 5 ngày từ ngày xảy ra tai nạn (trừ trường hợp bất khả kháng), chủ xe phải gửi thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm kèm theo tài liệu quy định trong hồ sơ yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm của chủ xe cơ giới.
Thời hạn thanh toán bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm là 15 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ bồi thường thuộc trách nhiệm của chủ xe cơ giới và không quá 30 ngày trong trường hợp phải xác minh hồ sơ.
Ngoài ra, Nghị định cũng quy định rõ các hành vi vi phạm, hình thức và mức xử phạt. Cụ thể, hành vi không có hoặc không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực, người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, xe mô tô ba bánh và các loại xe cơ giới tương tự bị phạt 100.000 đồng; người điều khiển ô tô, máy kéo và các loại xe cơ giới tương tự bị phạt 500.000 đồng…
Từ chối bán bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm bị phạt 50 triệu đồng, Tổng giám đốc (Giám đốc) và người liên quan của doanh nghiệp bảo hiểm bị phạt 10 triệu đồng.
Doanh nghiệp bảo hiểm bị phạt 50 triệu đồng nếu sử dụng Giấy chứng nhận bảo hiểm cấp cho chủ xe cơ giới không đúng quy định của Bộ Tài chính; bị phạt 30 triệu đồng nếu không tuân thủ thời giạn bảo hiểm; bị phạt 50 – 70 triệu đồng nếu không tuân thủ mức phí bảo hiểm do Bộ Tài chính quy định.
Việc trả hoa hồng bảo hiểm không đúng đối tượng quy định bị phạt 70 triệu đồng. Cá nhân, tổ chức có hành vi trục lợi để nhận tiền bồi thường, trả tiền bảo hiểm bị phạt tiền từ 30 – 70 triệu đồng.
Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Quy định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
1. Cục Cảnh sát giao thông đường bộ – đường sắt; Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khi làm thủ tục cấp đăng ký phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (viết gọn là xe cơ giới) phải yêu cầu chủ xe xuất trình Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực.
2. Lực lượng Cảnh sát giao thông, lực lượng Cảnh sát khác có liên quan khi tuần tra kiểm soát nếu phát hiện người điều khiển phương tiện hoặc chủ xe cơ giới không có hoặc không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực, thì phải lập biên bản, xử lý kịp thời theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2008 và Nghị định số 103/2008/NĐ-CP của Chính phủ với mức tiền phạt như sau:
– Phạt tiền 100.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, xe mô tô ba bánh và các loại xe cơ giới tương tự không có hoặc không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực;
– Phạt tiền 500.000 đồng đối với người điều khiển xe ô tô, máy kéo và các loại xe cơ giới tương tự không có hoặc không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/4/2009 (đã đăng Công báo ngày 10/3/2009) và thay thế Thông tư liên tịch số 16/2007/TTLT-BCA-BTC ngày 07/11/2007 của liên Bộ Tài chính, Bộ Công an hướng dẫn việc phối hợp thực hiện chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới./.
Nhập nhằng bảo hiểm xe máy
BaoHiemXeMay.Net – Người mua bảo hiểm xe máy thường nghĩ đơn giản là bỏ ra vài chục ngàn đồng cho xong chuyện, tránh phiền phức. Người bán cũng chủ yếu sao chỉ lấy được tiền là xong.
Theo số liệu thống kê của Phòng Vận tải Công nghiệp (Sở GTVT TPHCM), tính đến cuối tháng 5-2008, tổng số xe gắn máy của người dân TPHCM đã lên hơn 3,5 triệu chiếc (tăng 8,5% so với thời điểm đầu năm).
Với mỗi xe phải mua bảo hiểm ít nhất là 60.000 đồng, thì số tiền thu vào hằng năm của các doanh nghiệp (DN) bảo hiểm là không nhỏ. Nhưng để lấy được tiền bồi thường từ DN bảo hiểm cũng lắm nhiêu khê.
Bởi chẳng may xảy ra tai nạn, khách hàng mua bảo hiểm và người thứ 3 được bồi thường lại rơi vào “lỗ hổng” của luật và thái độ “lập lờ” từ phía các DN kinh doanh bảo hiểm đã kéo dài từ nhiều năm nay.
Quy định “vênh” với thực tiễn
Luật quy định xe máy lưu thông phải mua bảo hiểm để các DN bảo hiểm chia sẻ rủi ro lỡ xảy ra sự cố nhưng lại không rạch ròi trong vấn đề bồi thường. Do vậy, sau 5 năm áp dụng luật, chẳng mấy chủ xe được “chia sẻ” khi bị tai nạn vì các điều kiện mà DN bảo hiểm đưa ra để được bồi thường cực kỳ phức tạp.
Theo Quyết định 23/2003/QĐ-BTC của Bộ Tài chính, lái xe có bảo hiểm khi gây ra tai nạn phải cứu chữa thiệt hại về người và tài sản; bảo vệ và giữ nguyên hiện trường tai nạn; báo ngay cho DN bảo hiểm; giữ nguyên hiện trạng xe; trong vòng 5 ngày phải gửi cho DN bảo hiểm thông báo tai nạn (có người làm chứng xác nhận)… Quy định thì rõ nhưng lại “vênh” với thực tiễn. Bởi tai nạn thường xảy ra bất ngờ, ít ai chịu làm chứng vì sợ phiền hà.
Khi tai nạn xảy ra, điều trước tiên là phải cấp cứu chứ không ai nghĩ đến chuyện gọi cho bảo hiểm. Chủ phương tiện phải sửa chữa xe ngay để kịp thời đi lại, kiếm sống, nhưng khi sửa xe xong mang lại cho DN bảo hiểm thì họ không đồng ý vì chưa giám định… Nếu xét đúng điều kiện thì “năm thì mười họa” mới lấy được đền bù của bảo hiểm.
Chị Phương Nguyên (quận 4, TPHCM) cho biết mua bảo hiểm để đối phó với công an cho khỏi “rách việc” chứ nếu lỡ va chạm, công sức bỏ ra làm thủ tục đến khi nhận tiền bảo hiểm “tiền cá đã quá tiền cơm”.
Mặt khác, nếu thực thi đúng yêu cầu của bảo hiểm lại hoàn toàn mâu thuẫn với việc chống ùn tắc giao thông. Vậy nếu DN bảo hiểm chưa sẵn sàng để thực hiện hết trách nhiệm thì sao luật lại bắt buộc?
Để tránh rắc rối
Ông Phùng Đắc Lộc, Tổng Thư ký Hiệp hội Bảo hiểm, thừa nhận những rắc rối liên quan đến bảo hiểm xe máy nêu trên là có thật. Chỉ cần lướt một vòng trụ sở, chi nhánh hoặc bộ phận có chức năng thanh toán bảo hiểm sẽ thấy nhiều trường hợp tranh cãi dở khóc dở cười… Lỗi từ phía bảo hiểm cũng có nhưng nguyên nhân xuất phát từ sự hiểu biết thiếu đầy đủ của khách hàng cũng không phải nhỏ.
Trong đó, vi phạm của khách hàng về giấy phép lái xe, đăng kiểm, mua bảo hiểm cao hoặc thấp hơn giá trị thực tế của xe, hiểu nhầm về bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe chứ không phải vật chất xe chính là những cái “chết” phổ biến nhất hiện nay.
Tuy nhiên, những sự việc đáng tiếc trên sẽ được hạn chế đáng kể nếu khách hàng được tư vấn kỹ và giải thích triệt để về quyền lợi khi tham gia bảo hiểm của mình. Bên cạnh đó, bản thân khách hàng phải là người đầu tiên chủ động tìm hiểu và tuyệt đối tránh mọi thủ thuật nhằm trục lợi bảo hiểm. Tất cả sẽ giúp cả hai phía khách hàng và công ty bảo hiểm hạn chế được những rắc rối, tranh cãi không cần thiết về sau.
Quỳnh Chi (Tin tức online)